Contents
Cây là ngón là cây gì?
Lá ngón hay còn gọi là co ngón (Lạng Sơn), thuốc dút ruột – hổ mạn trường – đại trà đằng, hồ mạn đằng, hoàng đằng, câu vẫn, đoạn trường thảo. Tên khoa học là Gelsemium elegans Benth, (Medicia elegans Garn, Leptopteris sumatrana Blume). Cây thuộc họ Mã tiền Loganiaceae.
Cây lá ngón được coi là loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người. Tên cây ngón dùng để chỉ một cây hác nữa có tên khoa học là Pterocarya tonkinensis Dod thuộc họ Hồ đà (Juglandaceae) sẽ giới thiệu ở sau. Mọi người cần chú ý tránh nhầm lẫn rất nguy hiểm.

Hình dạng cây lá ngón trông như thế nào
Đoạn là dứt, trường là ruột, tên đoạn trường thảo vì người ta cho rằng uống vào vị này sẽ bị đứt ruột mà chết.
Đoạn trường thảo hay cây lá ngón là một loại dây mọc leo, thân và canh2h không có lông, trên thân hơi có khía dọc. Lá mọc đối, hình trứng thuông dài, hơi tù, mép nguyên, bóng, nhẵn, dài 7-12cm, rộng 2,5-5,5cm. Hoa mọc thành xim ở đầu cành hay ở kẽ lá. Cánh hoa màu vàng. Có tài liệu nói hoa màu trắng nhưng khi khảo sát kỹ thì đúng thực là hoa màu vàng (tại Lạng Sơn và các nơi khác:Sapa, Hà Giang). Mùa hoa tháng 6-8-10. Quả là 1 nang dài màu nâu hình thon, dài 1cm, rộng 0,5c. Hat nhỏ, quanh mép có rìa mỏng màu nâu nhạt, hình thận.
Công dụng chữa bệnh của lá ngón
Nhân dân Việt Nam không dùng cây ngón làm thuốc, chỉ giới thiệu ở đây để chúng ta biết mà tránh và có thể phát hiện khi bị ngộ độc. Tại Bắc Mỹ và Trung Quốc, người ta dùng cây lá ngón để chữa bệnh động kinh và giảm đau nhưng cũng rất ít dùng.
Chú thích:
Một vài vùng nữa ở nước ta còn gọi một cây nữa là cây lá ngón. Sự thật cây lá ngón nói trên vào loại độc nhất. Cây lá ngón giới thiệu ở đây còn gọi là cây cơi hay cây lá cơi (phong dương) có tên khoa học là Pterocarya tonkinensis Fanchet, thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae). Đây là một cây nhỡ cao chừng 5-6m, lá kép lông chim nhẵn gồn 3-6 lá chét mọc đối hay gần như đối, không cuống, phía cuống hơi không đều, mép lá răng cưa, nhưng lá phía trên to rộng hơn, bóng nhẵn, những lá chét dưới có mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông. Hoa cái mọc thành bông nhiều hoa mộc sít nhau hơi có lông. Quả mọc thành bông thõng xuống, dài tới 45cm hay hơn. Hạt nhỏ dài 15-17mm, rộng 2-3mm, hơi có lông có 2 cánh hẹp. Cây này mọc hoang khắp nơi ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất vùng rừng núi, có cả ở miền Trung và ở Lào. Nhân dân thường dùng lá giã lấy nước để đuốc cá, có khi người ta dùng lá nấu nuốc nhuộm màu nâu kaki. Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu về dược tính.
Cây lá ngón mọc ở đâu và phân bố ở nước ta như thế nào
Lá ngón khá phổ biến ở miền rừng núi Việt Nam. Người ta thường không dùng làm thuốc mà chỉ dùng để tự tử hay với mục đích đầu độc. Các tỉnh miền núi như Hòa Bình, Hà Tây, Lào Cai, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang đều có. Còn có ở một số nước thuộc vùng nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á. Ở Trung Quốc người ta thấy ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên, Bắc châu Mỹ có loài Gelsemium sempervirens Art.
Nhân dân ta hay dùng lá như trên đã nói, trái lại Trung Quốc hay dùng rễ và bán tại các hiệu thuốc để làm thuốc chữa hủi hay chữa bệnh nấm ở tóc (teigne). Ngoài ra cũng được dùng với mục đích đầu độc.

Tác dụng dược lý của lá ngón
Trong cây lá ngón Bắc Mỹ, thành phần chủ yếu là chất gelmixin có độc tính rất mạnh, với liều thấp trên động vật có vú, trước khi thấy hiện tượng ức chế hô hấp thường thấy là một thời kỳ hưn phấn ngắn.
Trong cây lá ngón của ta và Trung Quốc có thành phần khác nhưng so với tác dụng của những ancaloit của cây lá ngón Bắc Mỹ thì nhiều phần giống nhau. Chất kumin và kuminin ít độc hơn, gần giống tác dụng của gelsemin, chất kuminixin rất độc nhưng chất gelsemixin lại độc hơn nữa. Nhỏ dung dịch gelsemin và gelsemixin lên mắt thì thấy hiện tượng giãn đồng tử còn kumin và kuminin không làm giãn đồng tử.
Ngoài thành phần hóa học, Hoàng Như Tố còn kiểm tra truyền thuyết của dân gian nói :chỉ cần ăn 3 lá ngón là đủ chết” đồng thời tìm cơ chế tác dụng của lá ngón để tìm cách chống độc có hiệu quả đã đi tới số liệu như sau:
1. Liều độc: Liều độc LD50 đối với chuột nhắt trắng của rễ là 102mg/kg thể trọng (rễ chiết bằng cồn 90 độ), của lá là 600mg/kg (tươi chiết bằng nước) 150mg/kg (lá khô chiết bằng cồn 70 độ), 89mg/kg (lá khô chiết bằng cồn 90 độ), của ancaloit toàn phần chiết từ lá khô là 300mg/kg, tron khi đó của gelsemin là 140mg/kg và kumin thì không độc. Như vậy lá ngón có độc nhưng không đến mức ăn đủ 3 lá ngón lá chết như người dân thường nói.
2. Tác dụng độc của lá ngón không đặc hiệu trên hệ thống thần kinh, gây nên co giật và chết do ngừng hô hấp trong một trạng thái thiếu oxy rõ rệt.
3. Nghiên cứu về mặt chống độc cho phép kết luận cơ chế tác dụng của các hoạt chất cây lá ngón chủ yếu đánh vào men hô hấp gây nên sự rối loạn trong tế bào dẫn đến sự thiếu oxy nghiêm trọng gây nên các hiện tượng co giật cơ và liệt. Phương hướng dùng các thuốc ngăn cản sự ức chế men và bảo trợ men đã dẫn tác giả tìm ra được tính chống độc của ATP. Khi dùng ATP để ngăn ngừa cũng như để điều trị ngộ độc bằng lá ngón đã giảm tỉ lệ chết của chuột nhắn xuống từ 58% còn 25% đã cứu được tất cả các thỏ làm thí nghiệm khi đã bị ngộ độc bằng liều chết của lá ngón
Như vậy qua bài viết này chúng ta thấy rằng lá ngón rất độc và không nên ăn, tác dụng chữa bệnh của cây lá ngón là rất ít. Vì thế, chúng ta không nên ăn lá ngón cũng như trồng nhiều lá ngón quanh nhà để tránh sai lầm không mong muốn.
Nguồn tài liệu Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi